Thành Bát Quái
Còn gọi là Thành Quy, do vua Gia Long ra lệnh xây từ ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất (1790), theo kiểu hỗn hợp Đông Tây và viên quan Pháp Olivier De Puymanuel trách nhiệm xây cất. Thành đắp hình bát quái giống như hoa sen và cũng tựa hình con rùa nằm nên còn gọi là Thành Quy. Việc xây thành gặp nhiều sự chống đối của dân chúng vì Gia Long bắt hàng trăm gia đình phải bỏ nhà đi nơi khác, bắt hơn 30 ngàn người để tham gia việc xây cất, cộng thêm nghĩa vụ đóng góp tiền của gạo, gạch gỗ…

Thành có tám cửa và tám con đường ngang dọc. Chiều dài từ Đông sang Tây bằng từ Nam đến Bắc là 131 trượng hai xích (khoảng 658 thước ngày nay), thành cao một trượng ba xích (khoảng sáu thước), bề ngang chân tường thành dày bảy trượng năm xích. Mỗi dãy tường thành của ba phía Bắc, Đông và Tây đều có hai “công sự chiến đấu”. Giữa hai công sự này là một tường “trường thành”. Trong thành đặt nhà Thái miếu và kho đồn điền ở bên phải. Xưởng trại chứa súng phía trái, hoàng cung ở giữa. Ngoài ra, còn có hậu điện (nơi mẹ vua ở), y viện, xưởng thợ, kho thuốc súng. Trại lính dựng chung quanh cho quân túc vệ ở. Trước sân có trụ cờ ba từng, cao 12 trượng 5 thước (61 thước ngày nay).
Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh phòng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh.
Trên “Vọng đầu bát giác” (tháp canh hình bát giác) có thang dây, có quân canh gác, có việc gì bất ổn thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu. Hào thành 16 xích (khoảng 7 thước), bề ngang 15 trượng năm xích (khoảng 76 thước) có cầu bắc qua; ngoài đắp lũy bằng đất, chu vi 794 trượng (khoảng 3.820 thước).
Với các vòng thành bao bọc hình hoa sen. Quy hoạch kiến trúc bên ngoài thành với đường ngõ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự.
- Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Hòa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận.
- Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Chiếu theo Bát quái – Càn Khôn như sau:
- Hướng Tây – Bắc có 2 cửa Khảm Hiểm Khôn Hậu
- Hướng Đông – Bắc có 2 cửa Cấn Chi và Chấn Hưng
- Hướng Đông – Nam có cửa Ly Minh và Càn Nguyên
- Hướng Tây – Nam có 2 cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Duyệt
Đối chiếu với vị trí ngày nay, thành nằm trong bốn con đường Nguyễn Đình Chiểu (Bắc), Tôn Đức Thắng – Đinh Tiên Hoàng (Đông), Lê Thánh Tôn (Nam) và Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Tây).
Thành xây bằng đá ong Biên Hòa, gạch nung và có nơi đắp bằng đất tùy theo vị trí. Năm Tân Dậu (1801), đại binh của Nguyễn Ánh thu được thành Phú Xuân (Huế), rồi sai tháo gỡ sườn nhà Thái miếu trong thành chở ra Huế dựng lại.
Nhưng năm 1813, Gia Long sai Nguyễn Văn Nhân và Trịnh Hoài Đức lập thành cung tại thành Bát Quái, xây thêm gác chuông và gác trống hai bên tả hữu, định chừng chưa bỏ ý trở vào nếu có chuyện bất trắc xảy ra. Sau hành cung có dinh quan Tướng Súy, tại cửa Ly Minh xây gác Thần Minh, và tại ba cửa Kiền Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận có đặt trại lính lợp ngói vách sơn đỏ.
Đời Minh Mạng, các cửa Bát Quái được đổi tên: phía Bắc đổi là hai cửa Củng Thần, Vọng Khuyết, phía Đông là cửa Phúc Viễn, phía Nam là hai cửa Gia Định, Phiên An và phía Tây là hai cửa Tinh Biên, Tuyên Hòa. Năm 1830, Ông Lê Văn Duyệt có cho nối vách thành cao thêm một thước rưỡi và dùng toàn đá ong; vì vậy sau nầy bị ghép vào tội chuyên quyền và có lòng phản.
Sau vụ Lê Văn Khôi chiếm thành trong ba năm (1833 – 1835) như đã nói ở trên. Minh Mạng cho phá thành Bát Quái để xây thành Gia Định. Di tích còn lại một số đá ong tìm thấy ở gần nhà thương Đồn Đất (nhà thương Grall thời Tây) và góc đường Tự Do – Gia Long.