Lịch sử người Minh Hương
Người Trung Hoa di cư và sinh sống tại Việt Nam từ rất lâu (thế kỷ thứ 3 TCN), họ đi thành từng đoàn, đoàn sau tiếp nối đoàn trước trải qua nhiều thế hệ được tập hợp bởi nhiều thành phần khác nhau (trí thức, nông dân, binh lính, tội phạm…) với nhiều nguyên nhân khác nhau (bất mãn chế độ thời bấy giờ, trốn lính, trốn trại, cuộc sống nghèo đói…) khiến họ không thể tiếp tục cuộc sống tại quê hương để bắt đầu cuộc sống lang bạc và khi đó Việt Nam là một miền đất tốt là nơi giúp họ có thể sinh tồn.
Trong các đợt di cư đó có nhóm người mà sau này được triều đình nhà Nguyên phong tặng và gọi là người Minh Hương đã đến sinh sống, tồn tại, phát triển tại Gia Định xưa (hơn 300 năm) và qua nhiều thế hệ con cháu những người định cư này đã hòa nhập với người bản sứ (Việt) hình thành nên một nền văn hóa và con người Hoa nhưng rất Việt cho đến tận ngày nay.
Những cộng đồng người Hoa này được gọi là người Minh Hương được cấu thành từ hai chữ sau:
– Chữ “Minh”: 明 nói lên sự tươi sáng của bình minh sau khi vượt một quảng đường xa xôi từ quê hương họ vào đến Gia Định nhưng cũng có thể nói lên sự tưởng nhớ đến quê hương đất nước của họ (nhà Minh) đã bị nhà Thanh tiêu diệt hoàn toàn (năm 1766)
– Chữ “Hương”: 香 có nghĩa là “thơm” nói lên sự tốt đẹp của làn gió mới do nhóm người này đem lại cho Sài Gòn thời bấy giờ, nhưng khi kết hợp chữ Hương 香 với chữ Minh 明 có nghĩa là “hương hỏa nhà Minh” (明香) , mãi cho đến triều vua Minh Mạng (năm 1827) thì vua đổi chữ Hương 明 sang chữ Hương 鄉 nghĩa là “làng” để tránh đụng chạm với nhà Thanh, từ đó từ Minh Hương Minh (明鄉) được hiểu là một “làng của người Minh” và cũng có thể ngụ ý đây là “làng tươi sáng hoặc nổi bật, ưu tú, đặc biệt,…”.
Tuy nhiên khi nói đến người Hoa sinh sống tại Đàng Trong (thời Chúa Nguyễn) thì chính xác hơn phải nhắc đến 2 nhóm người: nhóm thứ nhất gồm Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch (1679), thứ hai là Mạc Cửu (1708).
1.Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch
– Vào mùa xuân tháng giêng năm Kỷ Mùi (1679), tướng cũ nhà Minh là Tổng binh thành Long Môn (thuộc tỉnh Quảng Tây) tên Dương Ngạn Địch cùng phó tướng Hoàng Tiến và Tổng binh ba Châu là Châu Cao, Châu Lôi và Châu Liêm (thuộc tỉnh Quảng Đông) tên Trần Thượng Xuyên cùng phó tướng Trần An Bình khởi binh chống nhà Thanh nhằm khôi phục nhà Minh (bị nhà Thanh tiêu diệt hoàn toàn vào năm 1766) nhưng thất bại, hai vị Tổng binh này cùng 3000 quân tùy tùng và đem theo gia đình trên 50 chiến thuyền chạy sang hải phận nước Nam cầu cứu chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần và tự nhận là bồ thần (bề tôi mất nước, trốn ra nước ngoài) của nhà Minh không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, nên đến xin thuần phục nước Việt.
– Nhờ vào mối quan hệ trước đó của mình với quốc vương Chân Lạp, trước đó vào năm 1673 chúa Nguyễn Phúc Tần đã đứng ra can thiệp và hòa giải cho cuộc tranh chấp quyền lực ở nước Chân Lạp giữa một bên là hai anh em Ang Ji – Ang Sur và bên kia là hai bác cháu Ang Tan – Ang Nan, năm 1674 Ang Tan chết và ba năm sau Ang Ji bị giết. Chúa Nguyễn cách phong cho Ang Sur làm chính vương đóng đô ở U Dong và Ang Nan làm phó vương đóng đô ở Prei Nokor tức Sài Gòn (tại nơi đất cao ráo là đồn Cây Mai, đất Phú Thọ Q11 ngày nay), do biên giới Việt – Champa ở phía Nam thời điểm đó chỉ dừng lại ở sông Phan Rang nên chúa Nguyễn Phúc Tần đã đề nghị Ang Nan (đang được chúa Nguyễn bảo vệ) chia cấp đất cho nhóm Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Sài Gòn và Ang Nan đã đồng ý.
– Từ đó nhóm Trần Thượng Xuyên đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Địch đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho).
2.Mạc Cửu (1655 – 1735)
– Là một thương gia người Trung Hoa, ông đến và khai phá vùng đất Mường Khảm thuộc vương quốc Chân Lạp (Khmer) xưa, hình thành nên vùng đất Hà Tiên ngày nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Tại thời điểm này Chúa Nguyễn đã khai trấn lập ấp và hình thành xong sổ bộ tại Phủ Gia Định, dân bản sứ (Việt) và di cư (Hoa) đã sinh sống rất ổn định. Mường Khảm khi đó trong vùng của vương quốc Chân Lạp nhưng không bình yên vì có nhiều trộm cướp, chiến tranh giữa Xiêm và Chân Lạp,…
– Là người thông minh và có óc tổ chức, ông nhận thấy để tồn tại, sinh sống và phát triển tại vùng đất mà ông đã rất tốn công và tâm huyết mới có thể xây dựng được thì cần có sự trợ giúp của một thế lực đủ mạnh để bảo vệ và che chở và cuối cùng tháng 8 mùa thu năm thứ 18 năm Mậu Tý (1708) ông đến xin thần phục Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chúa Nguyễn chuẩn y và ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Từ đó ông bắt tay vào việc xây dựng dinh thự thành lập binh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên).
– Kể từ đó vùng đất này trở nên yên bình và phát triển nên dân cư các nơi càng qui tụ đông đúc mua bán sầm uất.
Cả Mạc Cửu và Trần Thượng Xuyên là 2 nhân vật tiêu biểu cho những người Hoa sinh sống tại phương Nam mà sau đó đã trở thành tôi thần của các đời chúa Nguyễn. Mạc Cửu được phong tước Cửu Ngọc Hầu, Trần Thượng Xuyên được phong là Nguyễn Vi Vương, Trần Vi tướng, Đại đại công thần bất tuyệt còn được 2 vị vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc phong là Thượng đẳng thần.
Từ đó thế hệ người Minh Hương đã ra đời, bắt đầu thế hệ đầu tiên là Trần Đại Định và Mạc Thiên Tứ, là 2 người con của Trần Thượng Xuyên và Mạc Cửu. Họ đã sinh ra và trưởng thành ở Đàng Trong có công quyên góp tiền và giúp sức cho chúa Nguyễn Ánh chống lại triều đại Tây Sơn (nhằm trả ơn các chúa Nguyễn đã từng cưu mang gia đình họ từ đời trước) nhưng cả hai đều đã mất trước khi Nguyễn Ánh lên ngôi thống nhất đất nước. Thế hệ đầu tiên và sau đó người Minh Hương đã hội nhập một cách rất tự nhiên vào văn hóa và xã hội Việt Nam từ đó đến nay.
Đỗ Trọng Danh