Tuệ Thành hội quán

Thế kỷ 18, khu vực này thuộc loại “trên bến dưới thuyền” xung quanh toàn là sông rạch, con đường thủy nối Bến Nghé (nay là khu vực Sài Gòn) và Sài Gòn (nay là khu vực Chợ Lớn) qua vùng Tả Quán (chữ viết là Tả Quan), qua chợ Sài Gòn (khu vực trung tâm giới hạn bởi các đường Hải Thượng Lãn Ông, Triệu Quang Phục, Hồng Bàng, Phùng Hưng) qua chợ Phúc Lâm (khu vực xung quanh bến xe khách Chợ lớn ngày nay).

Sông Sài Gòn – nay chỉ còn một đoạn chỉ mang tên kênh Tàu Hủ, phần còn lại đã bị lấp thành đường Hải Thượng Lãn Ông (quận 5) và đường Lê Quang Sung (quận 6) nối tiếp nhau đã một thời góp phần làm cho khu vực tại đây trở nên thị tứ.

Con đường Phúc Châu hay là Quảng Đông (nay là Triệu Quang Phục) trở thành đại lộ chính nối các ngã đường trong phố chợ ra bến sông Sài Gòn “theo dạng chữ điền”.Trên con đường của trục lộ chính Phúc Châu ấy, ngôi chùa dành cho cộng đồng người Hoa thuộc Tuệ Thành đã được dựng lên.

Tuệ Thành Hội quán tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi gốc Nguyễn Trãi – Triệu Quang Phục, phường 11, quận 5. Đây là ngôi chùa thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu do cộng đồng người Hoa – Quảng Đông, gốc ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc) dựng nên, trước kia đường Triệu Qung Phục còn có tên là Phúc Châu hay Quảng Đông.

“ Tuệ Thành Hội Quán” là tên nguyên thủy của chủ thể khối kiến trúc này. Trong tất cả các bia, liễn và hoành phi trong Chùa không hề có ghi chép một tên nào khác ngoài tên này của Chùa cho thấy, thánh Mẫu Thiên Hậu cũng chẳng qua là một vị thần chủ yếu đặt trong Hội quán này mà thôi.

p8300338

Với tên “ Tuệ Thành Hội Quán” là chỉ rõ đây là nơi tụ họp của những người đến từ phủ Quảng Châu Tỉnh Quảng Đông. “Tuệ Thành” là biệt hiệu của thành phố Quảng Châu và “Hội Quán” là tên gọi xa xưa về trụ sở làm việc của một tổ chức quần chúng đồng hương hay đồng nghiệp.

Do quá lâu đời và không có tài liệu ghi chép cụ thể nên không có tài liệu ghi chép chính xác Chùa đã xây dựng vào năm nào.

Căn cứ theo tài liệu đã ghi trên bia đá trong Chùa thì được biết vào năm 1800, Chùa đã có một đợt trùng tu lớn , sau đó vào các năm 1825, 1842, 1882, 1890, 1996 cũng đã có các đợt trùng tu lớn hoặc nhỏ.

Vào thời Mãn Thanh (1766) có rất nhiều các thương buôn người Trung Hoa qua lại khu này vào Việt Nam mua bán, do đi đường xa lại phải dựa vào sức gió: đi khi gió Bắc và về khi có gió Nam do đó luôn phải ở lại Việt Nam vài ba tháng mỗi năm, nhiều người trong số thương buôn đã đề nghị hùn tiền xây Chùa để thờ Bà và xây dựng Hội Quán để làm nơi dừng chân của họ.

Sau này vì bên Trung Quốc thời cuộc không ổn định, nên nhiều thương gia đã không về nước và đã ở lại Việt nam an cư lạc nghiệp.

Quá trình hình thành , xây dựng lên Chùa Bà đã thể hiện rất rõ nét quá trình lao động và hội nhập vào xã hội Việt Nam của bà con người Hoa gốc phủ Quảng Châu từ ngày xưa đến vùng đất hứa Sài Gòn này, đồng thời cũng đã góp sức vào sự hình thành và xây dựng thành phố 300 tuổi.

Tuy đã trải qua nhiều năm tháng , nhưng ngôi Chùa vẫn giữ được nét đặc trưng cũ, phong cách kiến trúc cổ xưa độc đáo của người Hoa. Nhiều hiện vật, nhiều đường nét trạm trỗ, điêu khắc rất có giá trị về lịch sử và mỹ thuật, những hiện vật và kiến trúc này đã thu hút được nhiều sự chú ý chiêm ngưỡng của rất nhiều du khách trong và ngoài nước.

Đỗ Trọng Danh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *