Quá trình hình thành và mở cõi Đàng Thổ (1623 – 1698)

Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, đến trước thế kỷ thứ XVI, Sài Gòn – Gia Định còn là vùng hoang vu, cư dân thưa thớt.

Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, cùng với công cuộc Nam tiến của dân tộc, từng lớp người Việt đến khai hoang, vỡ đất trên dải đất biên viễn xa sôi, hoang dã, lập nên những xóm làng đầu tiên.

Năm 1618, vua Chey Chettha II lên ngôi, đã xin cưới công chúa con Chúa Nguyễn (người ta phỏng đoán đó là công nữ Ngọc Vạn con chúa Sãi, Nguyễn Phúc Nguyên). Từ đó mối giao bang giữa Đại Việt và Chân Lạp khá êm đẹp, người dân hai nước được tự do qua lại sinh sống cả hai bên lãnh thổ của nhau, từ đó nơi rừng rú hoang dã Thủy Chân Lạp với tên Prei Nokor có thêm nhiều hơn vết chân người Việt (tương truyền danh từ được phiên âm từ Prei Nokor ra Sài Gòn – Kas Krobey ra Bến Nghé và Nông Nại ra Đồng Nai đã được xuất hiện từ nhóm người Việt này đến lưu cư đầu tiên).

Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Vua Chân Lạp đã mau mắn gửi quốc thư hồi âm chấp thuận việc chúa Nguyễn muốn đặt trạm thu thuế tại 2 nơi đó. Sự việc này đã là một thực thể chính đáng cho chúa Nguyễn nhà Đại Việt với công trình khai hoang xứ Đàng Thổ, đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành thị tứ trên bến dưới quyền, công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.

Năm 1658, “Nặc Ông Chân phạm biên cảnh”, Hiền Vương liền sai “phó tướng Tôn Thất Yên đến thành Mô Xoài (Bà Rịa), đánh phá kinh thành và bắt được vua nước ấy”. Sau được tha tội và được phong làm Cao Miên quốc vương “giữ đạo phiên thần, lo bề cống hiến, không xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương. Khi ấy địa đầu Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai đã có lưu dân của nước ta đên ở chung lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất”. Như vậy là từ trước 1658, Mô Xoài và Đồng Nai đã thuộc “biên cảnh” của Việt Nam.

Năm 1674 (tức là 51 năm sau khi lập đồn thu thuế và 16 năm sau sự kiện Mô Xoài) xảy ra một biến cố chính trị và quân sự quan trọng: Vua Chân Lạp là Nặc ông Nộn bị người hoàng tộc Nặc Ông Đài nổi lên đánh đuổi. Ông Nộn sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm đem quân vào giúp, thâu phục luôn 3 lũy Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang (trong sử ta, địa danh Sài Gòn xuất hiện từ 1674 vậy). Đài thua chạy rồi tử trận. Chúa Nguyễn phong cho Nặc Ông Thu làm Cao Miên quốc vương đóng đô ở U Đông, cho Nặc Ông Nộn làm phó vương ở Sài Gòn. Ông Nộn lập dinh cơ có lẽ ở vùng đất cao ráo từ đồi sau này gọi là đồi Cây Mai đến vùng Phú Thọ hiện giờ. Ông Nộn 15 năm ở Sài Gòn cũng hoạt động quân sự nhiều cuộc đối đầu với vua Chân Lạp mà không thành.

Năm 1679 (tức 56 năm sau khi lập đồn thu thuế và 5 năm sau khi Ông Nộn đóng ở Sài Gòn). Đồn dinh Tân Mỹ không phải là một cái đồn có nhiệm vụ kinh tế, mà mang tính chất quân sự, chính trị, cai quản; có giám quân, cai bộ và ký lục với dinh thự của bộ sậu ấy, có trại lính để sai phái và để bảo vệ phó vương Chân Lạp, bảo vệ việt kiều. Đồn dinh cũng có nhiệm vụ lập làng chia xóm, tổ chức phố chợ. Thực tế đó là một chánh quyền bán chánh thức của chúa Nguyễn.

Cuối năm 1679 chúa Nguyễn cho phép các đoàn người Minh của Trần Thượng Xuyên vào Biên Hòa là đất chúa Nguyễn thực tế xem như là do mình quản trị, cũng là những vùng đã có lưu dân Việt Nam khai hoang lập ấp từ đầu thế kỷ 17.

Năm 1697, con của Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm từ Sài Gòn về Oudong được Nặc Ông Thu gả con gái để sau này Yêm nối ngôi Thu làm vua Chân Lạp. Từ nay ở Sài Gòn không còn có phó vương.

Năm 1698 (75 năm sau khi lập được đồn thu thuế đầu tiên tại Prei Nokor (Sài Gòn), Kas Krobei (Bến Nghé) – năm 1623 và  40 năm sau khi chúa Nguyễn nhận vùng Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai là “biên cảnh” của Việt Nam – năm 1658), Minh Vương Nguyễn Phúc Chu truyền lệnh cho  Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, lập phủ Gia Định, đặt Phiên Trấn dinh và Trấn Biên dinh, chính thức xác lập đơn vị hành chính của Đại Việt tại vùng đất phương Nam và đó là cuộc kinh lý miền biên cảnh đầu tiên – khi ấy đất đai đã mở rộng khắp miền đông Nam Bộ như ngày nay.

Năm 1698, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu ra lệnh Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược. Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc Gia 4 – Mộc bản triều Nguyễn

Ông cho đặt đại bản doanh tại Cù Lao Phố bằng sự nhận xét thần tốc về mọi mặt: đất đai hoang phế mênh mông nhưng toàn là sình lầy cùng rừng rậm; nhân lực thì yếu kém, đời sống sinh hoạt của các sắc dân quá thô thiển thật là thiên nan vạn nan!

Nhưng với ý chí quả cảm, bất kể nguy khó hiểm nghèo Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vạch ra kế sách cấp tốc: Khai hoang mở cõi và dàn xếp biên cương.

Song song với việc khẩn hoang Thống suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thi hành ngay việc chia ranh định vùng mong sớm đưa chúng dân vào nề nếp an cư.

Năm 1698, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu ra lệnh Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược. Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc Gia 4 – Mộc bản triều Nguyễn

Sau hết đến vấn đề di dân và khuyến nông đã được triều đình chúa Nguyễn chấp thuận. Thống suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh cấp tốc phái thuộc binh đi hô hào chiêu mộ dân chúng từ miền Ngũ Quảng vào Gia Định lập nghiệp.

Sự hình thành của Sài Gòn Gia Định ngày nay bắt đầu tư thuở cha ông đi khai phá và lập nghiệp cách đây hơn ba thế kỷ là vậy.

 

Đỗ Trọng Danh

 

Hãy là người dân Sài Gòn…để có được phút giây trải lòng cùng nó…!

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *