Còn đó…các nghề truyền thống
1.Nhà máy rượu Bình Tây
Đây là “Cân phân tích hóa chất” của nhà máy rượu Bình Tây, do tập đoàn Société Francaise des Distilleries de Indochine (SFDIC) Pháp xây dựng năm 1887. Hơn 100 năm đứng trên thị trường với thương hiệu Rượu Bình Tây gắn liền với địa danh nơi Công ty đóng trụ sở tại 621 Phạm Văn Chí, quận 6, TP.HCM.
Đây là Cân phân tích hóa chất của nhà máy.
Bình đong rượu khi xưa.
Hiện nay là Công ty Rượu Bình Tây thuộc Tổng Công ty Bia – Rượu – Nước Giải Khát Sài Gòn, Bộ Công Nghiệp.
2.Hãng xà bông Trương Văn Bền
Hiện vật của hãng xà bông Trương Văn Bền thành lập năm 1925
3.Làm bánh tráng
4.Đút đồng
Ở Sài Gòn đúc đồng là một nghề thủ công dân gian truyền thống. Khoảng thế kỷ XVIII, tại Sài Gòn xưa đã dần dần hình thành một số khu vực chuyên môn hóa về nghề đúc đồng. Khu vực ra đời sớm nhất là địa bàn Chợ Quán (nay thuộc quận 5) với 3 làng cổ: Tân Kiểng, Nhân Giang và Bình Yên.
Các nghệ nhân đúc đồng bấy giờ là những di dân từ các phường thợ ở Quy Nhơn vào. Họ đã nhanh chóng tập trung lại thành những làng thợ đúc và sản xuất ra những mặt hàng như nồi đồng, chảo đồng, ô đồng, lư hương, chân đèn… được mọi người ưa chuộng.
Kế đó là khu vực Tân Hòa Đông (nay thuộc quận 6) chuyên chế tạo lư đồng, chân đèn và nấu đồng thành thỏi. Một trong những tác phẩm xuất sắc của khu vực này là chiếc lư tre (xem hình) đã được đúc hàng loạt ở đây từ thế kỷ trước. Điều đáng tiếc là các nghệ nhân ở Tân Hòa Đông không rõ tổ tiên của họ từ đâu đến.
Cạnh 2 khu vực kể trên còn có 2 khu vực khác nổi tiếng về nghề đúc đồng ở thành phố Hồ Chí Minh đó là :
– Khu vực Thuận Kiều (Hóc Môn), từ thế kỷ XIX đã từng được biết với nghề đúc lư hương cha truyền con nối. Ở đây sản xuất cả 2 kiểu lư: Lư bắc (đỉnh trầm) và lư nam (lư hương), đặc biệt còn sản xuất cả siêu đao và thập bát ban binh khí. Dòng thợ tại khu vực này chủ yếu là con cháu của các thợ đúc miền Trung đã vào đây lập nghiệp từ nhiều đời.
– Khu vực “Thông tây hội” (Gò Vấp) từ lâu cũng là nơi tập trung nhiều lò đúc đồng thủ công. Sản phẩm lư hương “Thông tây hội” khá phổ biến. Theo một số nghệ nhân có tuổi thì nghề đúc này là do cha ông truyền lại.
Đầu thế kỷ XX, Trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một và trường Mỹ nghệ Biên Hòa được thành lập, góp phần với các khu vực kể trên chế tạo đồ mỹ nghệ bằng đồng.
Giữa thế kỷ XX, một số gia đình ở làng Ngũ Xã (Hà Nội) vào định cư tại vùng Hòa Hưng (Sài Gòn) mang theo nghề đúc đồng cẩn tam khí, hình thành một xóm nhỏ chuyên đúc đồng tam khí ở đây.
Theo quy định thì ngày 25 tháng 12 Âm lịch hàng năm là ngày cúng tổ nghề đúc đồng ở Tân Hòa Đông.
5.Kim hoàn
6.Mộc
7.Gốm
8.Sơn mài
Bình Dương là vùng đất mới ở Phương Nam được người dân khắp nơi về khai phá, trong tiến trình hình thành và phát triển vẫn mang đậm nét văn hoá thủ công truyền thống và sơn mài là một trong những làng nghề nổi tiếng, đã tồn tại trên địa bàn hơn 300 năm.
Trong đó, làng Tương Bình Hiệp là chiếc nôi của sơn mài Bình Dương, làng được biết đến nhiều và được xem là tiêu biểu nhất ở Bình Dương, ra đời vào thế kỷ XVIII.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi: “…ở làng Thủ Dầu Một, dân chúng có nghề làm sơn theo kiểu cổ khá thịnh vượng…”. Người Bình Dương thời ấy đã sớm nhận ra lợi thế của vùng đất này và đã dần hình thành nên làng thủ công đặc sắc.
Với nguồn nguyên liệu gỗ các loại, kết hợp với sơn dầu Phú Thọ – một loại nhựa có màu sắc đẹp, lạ, bóng, bền đã tạo nên lớp men đen bóng cho những tác phẩm đơn giản ban đầu mà nghệ nhân đã không ngừng hoàn thiện kỹ thuật đã đào tạo lớp kế thừa nghề cổ truyền và phát triển lâu dài trong xã hội.
Theo tư liệu lịch sử “Gia Định Thành Thống Chí” của Trịnh Hoài Đức, thì nghề sơn mài ở Bình Dương có từ thế kỷ XVII, do di dân từ miền Trung, miền Bắc mang theo vào vùng đất mới. Sau thời gian khai khẩn đất đai, đồng áng, sinh cơ lập nghiệp, họ đã thực hiện những bức tranh sơn mài đầu tiên – chủ yếu quét sơn vẽ tranh cảnh. Những bức vẽ cây đa, bến nước, mái đình, tre làng, … được tái hiện trên tranh giúp họ vơi đi nỗi nhớ quê nhà…
Đến thời thuộc Pháp năm 1901, thực dân Pháp cho mở trường dạy nghề Mỹ nghệ gọi là Trường Bá nghệ thực hành Thủ Dầu Một để phục vụ công tác khai phá thuộc địa. Tên tuổi các thợ như: Xù Nhồng, Phèn, Dựa được vang danh khắp nơi cùng lớp nghệ nhân trẻ có học vấn, tốt nghiệp ở các trường mỹ thuật như Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Mỹ thuật Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Từ đó, nghề thủ công mỹ nghệ có thêm đội ngũ thợ lành nghề được đào tạo chính quy – đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của các nghề thủ công cổ truyền ở Bình Dương.
Năm 1945, ở Bình Dương có 10 cơ sở sản xuất sơn mài, riêng làng Tương Bình Hiệp có hơn 300 hộ gia đình làm nghề, đặc biệt, xưởng sơn mài Thành Lễ thành lập 1943 là cơ sở sản xuất lớn nhất thời bấy giờ, tạo tiếng tăm trong và ngoài nước.
Ngày 29 tháng 8 năm 2006, Hiệp hội Sơn mài – Điêu khắc Bình Dương được thành lập tại Quyết định số: 3838/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương
Giỗ Tổ sơn mài Bình Dương được tổ chức 2 ngày trong năm:
- Ngày 13-6 âm lịch được xem là dịp “sơ kết” công chuyện làm ăn.
- Ngày 20 tháng chạp âm lịch được xem là dịp con cháu làng nghề tưởng nhớ đến tổ nghiệp, để tổng kết một năm làm nghề…
Nguồn:
- http://www.sugia.vn
- http://hhsonmaidieukhacbinhduong.org.vn
- http://langnghevietnam.vn/?go=New&page=d&igid=654&iid=5765
9.Dệt
10.Cân
11.Nhạc cụ
12.Máy may
13.Dụng cụ khác
Khi xã hội phát triển sự thay đổi thì các phương thức giao dịch thanh toán, các loại tiền, hóa đơn, giấy giao kèo, thẻ thu tô, thẻ đếm bao, bàn tính, biên lai cho đến những chiếc thẻ ATM mang trong nó tiến trình, diện mạo kinh tế, văn hóa và chính trị của từng thời kỳ phát triển của đất và người Sài Gòn.
Thẻ thu tô, thu thế của người dân trong thời Pháp đô hộ vào đầu thế kỷ 20.
Ô đong lúa gạo đầu thế kỷ 20.
Các đơn vị đong đo hạt rời thời đầu thế kỷ 20
Đỗ Trọng Danh