Chúa Nguyễn và quá trình mở cõi

Trong suốt lịch sử từ ngày lập quốc, rồi qua thời kỳ Bắc Thuộc kéo dài hàng ngàn năm, cho tới khi dành được độc lập vĩnh viễn năm 939 (Ngô Quyền), lãnh thổ Việt Nam bấy giờ gồm Bắc Việt và một phần của Bắc Trung Việt ngày nay, có ranh giới phía nam là Đèo Ngang với Chiêm Thành.

Cuộc nam tiến vào đất Chiêm Thành kéo dài 710 năm, bắt đầu từ năm 982 do vua Lê Đại Hành thực hiện, và việc chiếm lãnh thổ Chiêm Thành hoàn tất vào năm 1692 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Lãnh thổ Việt Nam bấy giờ gồm Bắc Việt và Trung Việt ngày nay .

Di dân Việt vào đất Chiêm Thành đầu tiên là năm 982, gồm dân của Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, là nơi đất hẹp người đông, có nền nông nghiệp nghèo nàn so với đồng bằng sông Hồng phì nhiêu. Cuộc di dân vượt qua biên giới Việt Chiêm được vua Lê Đại Hành khuyến khích. Dân Việt tiến làm ăn đến đâu, dân Chăm tránh lùi dần vào nam. Rồi từ đó, nhóm di dân này từ từ tiến vào phương nam, như vết dầu loang, khi lãnh thổ được nới rộng thêm .

Năm 1600, Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa (Huế) bắt đầu thiết lập cơ nghiệp độc lập với chúa Trịnh ở phương Bắc. Lãnh thổ của các Chúa Nguyễn bấy giờ gồm giải đất từ Sông Giang (Linh Giang) đến Đèo Cù Mông (nam Bình Định). Năm 1611, sau khi chiếm Phú Yên, chúa Nguyễn đưa di dân từ Quảng Nam, Bình Định và hơn 30000 tù binh Đàng Ngoài vào định cư ở Phú Yên. Sau khi chiếm Khánh Hòa năm 1652, Hiền vương Nguyễn Phúc Tần đưa di dân từ Quảng Nam, Bình Định vào Khánh Hoà, rồi sau đó chúa Nguyễn lần lượt chiếm Phan Rang, Phan Thiết (1692) với di dân Quảng Nam, Bình Định và Phú Yên.

Vì Miền Trung chật hẹp, đất nghèo, bão lụt, mất mùa thường xuyên, đói khổ và chinh chiến liên miên trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nên nhiều di dân từ Miền Trung dùng thuyền vào vùng Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa) còn hoang vu của Cao Miên khẩn đất hoang làm ruộng.

Công cuộc tây tiến chính thức bắt đầu năm 1620, nhờ ảnh hưởng của công chúa Ngọc Vạn, bấy giờ là hoàng hậu ở Cao Miên, vua Chey Chetta II cho chúa Nguyễn đặc quyền thu thuế ở vùng Đồng Nai, Mô Xoài. Di dân Việt từ miền Trung ồ ạt dùng đường biển (vì bấy giờ Chiêm Thành còn giữ Phan Rang và Phan Thiết) vào Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai lập nghiệp. Sau khi Chiêm Thành mất (1692), di dân Việt vào nam vừa bằng đường biển vừa đường bộ. Cuộc tây tiến của Việt Nam rất ôn hòa, không đổ máu với người Miên. Lợi dụng các vua Cao Miên tranh dành quyền lực và bảo vệ Cao Miên khỏi nanh vuốt xâm lược của Thái Lan, các vua Miên lần lượt hiến cho chúa Nguyễn một số lãnh thổ của đồng bằng Cửu Long.

Năm 1698, lãnh thổ Việt Nam thêm vùng Miền Đông cho tới Sài Gòn, Biên Hòa. Để kiểm soát một lãnh thổ còn hoang vu quá rộng lớn, các chúa Nguyễn áp dụng một chính sách cư dân triệt để: bắt tất cả những người vô gia cư, không có tên trong sổ bộ làng xã ở miền Trung phải di cư vào đồng bằng Nam Bộ mới chiếm hay vẫn còn thuộc Cao Miên.

Biến cố nhà Thanh diệt nhà Minh xảy ra ở Trung Hoa (1644) lại có ảnh hưởng tốt đến việc nới rộng lãnh thổ của chúa Nguyễn. Vào năm 1679, một số cựu thần nhà Minh không chịu đầu hàng nhà Thanh, tìm cách trốn khỏi Trung Hoa. Dương Ngạn Địch (Quảng Tây) và Trần Thượng Xuyên (hay Trần Tấn Tài) (Quảng Đông) dẫn 3.000 lính thuộc hạ gốc Quảng Đông và Phúc Kiến chạy tị nạn vào Đàng Trong. Vì e ngại vấn đề an ninh quốc gia, Chúa Nguyễn cho họ vào miền Đồng Nai cư trú, lúc bấy giờ còn thuộc Cao Miên. Nhóm Trần Thượng Xuyên vào lập nghiệp ở vùng Cù Lao Phố (Biên hòa), còn nhóm Dương Ngạn Địch vào vùng Mỹ Tho, bấy giờ còn thuộc Cao Miên nhưng hoang vu. Vùng Biên Hòa và Mỹ Tho trở nên trung tâm buôn bán phồn thịnh, lôi cuốn thêm người di tản Trung Hoa đến lập nghiệp thành lập nhóm Minh Hương.

Cũng thời đó, năm 1671 Mạc Cửu, một thương buôn người Quảng Đông, cùng với mấy trăm tùy tùng, phần đông là người Triều Châu đến định cư ở vùng Hà Tiên. Năm 1708 Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn Phúc Chu. Từ đó đất Hà Tiên (gồm Châu Đốc, Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau) thuộc Việt Nam.

Cuối cùng, vào năm 1755, vua Cao Miên Nặc Nguyên dâng Gò Công và Tân An, năm 1757 vua Nặc Thuận hiến 2 tỉnh Trà Vinh và Ba Thắc, vua Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (An Giang) và 2 quận Tầm Đôn và Xuy Lạp (Vĩnh Long) năm 1758.

Như vậy trong 138 năm tây tiến (1620 đến 1758), Việt Nam làm chủ cả vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện nay.

Trình bày: Đỗ Trọng Danh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *