Long Vân Hầu – Trương Tấn Bửu
Trương Tấn Bửu(1752 – 1827) là một danh tướng thời nhà Nguyễn phục nghiệp còn có tên khác là Trương Tấn Long, ông được vua Nguyễn phong tước Long Vân Hầu.
Trương Tấn Bửu, người làng Hưng Lễ, tổng Bảo Phước, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre). là con thứ ba (gọi theo người miền Nam là con thứ tư) của ông Trương Tấn Khương và bà Trần Thị Nghĩa.
Thời trai trẻ, Trương Tấn Bửu đã nổi tiếng là người tuấn tú, có sức mạnh vô song, dám đương đầu với cọp.
Năm Đinh Mùi 1787, lúc chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Ánh) chạy trốn quân Tây Sơn, có ghé nhà cha ông tạm trú một đêm. Gặp dịp, ông xin theo phò tá. Nhưng vừa ra khỏi nhà, ông gặp ngay trận chiến ác liệt. Nhờ sự thông minh và lòng dũng cảm, ông cứuthoát được chúa Nguyễn.
Sau đó, ông được làm cai cơ, thuộc đạo quân của Tôn Thất Hội. Tháng 6 năm Canh Tuất(1790), thăng chức Hậu quân Hậu chi Chánh chưởng chi, rồi đổi qua Chưởng quản Tiền quân.
Tháng 2 năm Đinh Vị (1797), thăng Tiền quân Phó tướng, lập được nhiều chiến công ở Bình Định, Hội An.
Năm Nhâm Tuất1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi (Gia Long), phong ông làm Chưởng dinh, quản lĩnh đạo quân Bắc Thành.
Năm 1806, có công dẹp bọn cướp biển Tàu Ô, ông được thăng làm Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng, quyền lãnh chức Tổng trấn Bắc Thành, thay Nguyễn Văn Thành.
Năm Canh Ngọ1810, ông lại được bổ vào Gia Định, quyền lãnh chức Tổng trấn, đến năm 1812, thực thụ Phó Tổng trấn Gia Định.
Năm 1816, ông đốc suất đắp thành Châu Đốcrồi được điều về Huếlàm Trung quân phó tướng. Năm Nhâm Thân 1821, lại được cử làm Phó Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai.
Năm Nhâm Ngọ1822, ông thăng Chánh nhất phẩm, thân phụ ông cũng được vua Minh Mạng ban sắc truy phong là Nghiêm oai tướng quân, Trung quân Thống chế và mẹ ông cũng được truy phong vào hàng mệnh phụ phu nhân.
Năm Quí Mùi 1823, theo lệnh của Lê Văn Duyệt, ông chỉ huy khoảng 35.000 quân và dân lo nạo vét kênh Vĩnh Tế cùng với Thoại Ngọc Hầu, rồi chẳng bao lâu sau ông bịnh, xin về hưu vào ngày 17 tháng 11 năm Ất Dậu (1825).
Tuy hưu trí, nhưng ông được vua Minh Mạng cho hưởng lương bổng đầy đủ. Ngày 2 tháng 8 năm 1827 (10 tháng 6 âm lịch năm Đinh Hợi) ông mất, thọ 75 tuổi. Vua nhà Nguyễn đã lệnh cho LêVăn Duyệt đứng làm chủ lễ, cấp đất chôn và xuất hai ngàn quan tiền, năm cây gấm tốt để giúp vào việc tống táng.
Đến đời Tự Đức năm thứ 5 (1852), ông được thờ vào miếu Trung hưng công thần và đền Hiền lương. Hiện nay tại Phú Nhuận(thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) còn miếu và mộ ông.
Tài liệu tham khảo
- Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, 1992, tr. 929-930
- Huỳnh Minh, Kiến Hòa xưa, Nxb Thanh Niên, 2001, tr. 118.
- Diên Hương, Thành ngữ điển tích từ điển, Nxb Đồng Tháp, tr.410.
- Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb VHTT, 29006, tr. 137-140.
Trình bày: Đỗ Trọng Danh