Kiến Xương Quận Công – Nguyễn Huỳnh Đức

Nguyễn Huỳnh Đức(1748-1819) là danh tướng nhà Nguyễn, nguyên tên là Huỳnh Tường Đức nhờ lập được nhiều công lao nên được ban quốc tính họ Nguyễn,  từ đó, ông có họ kép là Nguyễn Hoàng.

Ngay từ lúc còn trẻ, ông đã có “dung mạo khôi ngô, khỏe mạnh hơn người, ai cũng coi ông là hổ tướng”

Nguyễn Huỳnh Đức, quê tại giồng Cái Én, xã Trường Khánh,tổng Hưng Nhượng, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay thuộc ấp Dinh, xã Khánh Hậu, thị xã Tân An, tỉnh Long An)

Xuất thân trong một gia đình quan võ. Ông nội là Huỳnh Châu, cha là Huỳnh Lương đều theo phò chúa Nguyễn và đều được phong chức Cai đội.

Lúc đầu, năm 1781, ông gia nhập vào đội quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, sau Thanh Nhơn bị Nguyễn Phúc Ánh giết chết nhưng Nguyễn Huỳnh Đức vẫn được tin dùng.

Năm Nhâm Dần (1782), ông được phong Tiền quân. Từ đó về sau, cuộc đời ông gắn chặt với Nguyễn Ánh, gian khổ cùng chia, đắng cay cùng chịu, nhất là khi Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi đến Định Tường và bị sa lầy. Thế rồi, chỉ mỗi một mình ông dám quay ngựa, xông thẳng về phía đối phương hô to những lời thách thức. Lúc ấy trời vừa chạng vạng tối, quân Tây Sơn sợ bị mai phục nên rút lui. Trong đêm đó, vì quá mõi mệt, Nguyễn Phúc Ánh đã gối đầu lên đùi ông ngủ mê man. Tờ mờ sáng hôm sau, khi tỉnh vậy, chúa Nguyễn thấy Huỳnh Đức vẫn còn đang lấy áo đuổi muỗi cho mình.

Cảm động, Nguyễn Phúc Ánh ban cho ông “quốc tính” và ông càng được chúa Nguyễn tin yêu, xem như người trong hoàng tộc.

Năm 1783, ông đánh nhau với quân Tây Sơn ở Đông Tuyên, nhưng bị thua, bị bắt cùng với 500 thuộc hạ. Nguyễn Huệ thấy Huỳnh Đức khỏe mạnh, nên thu dùng. Ông chịu theo Tây Sơn nhưng có lời giao kết là ông chỉ đánh quân Trịnh, chứ không đánh nhau với quân của chúa Nguyễn

Năm 1786, Nguyễn Huỳnh Đức theo Nguyễn Huệ ra Bắc đánh nhau với quân Trịnh, rồi về làm phó tướng cho Nguyễn Văn Duệ. Duệ trước là tướng tâm phúc của Nguyễn Nhạc nên không thích ở dưới quyền của Nguyễn Huệ.

Biết việc vừa kể, Nguyễn Huỳnh Đức nói với Nguyễn Văn Duệ rằng hãy theo đường tắt trong rừng mà lẻn về Qui Nhơn, hội quân với Nhạc. Duệ tin lời, lập tức dẫn hơn 5000 quân băng rừng rậm về Nam.

Trên đường, Nguyễn Huỳnh Đức lựa dịp trốn sang Vạn Tượng rồi qua Xiêm (Thái Lan). Nhưng khi ông đến nơi, Nguyễn Ánh đã về Gia Định. Vua Xiêm muốn giữ lại, nhưng ông cương quyết về với chúa Nguyễn.

Năm 1799, ông được thăng chức Chưởng quản Hữu quân dinh, ra đánh chiếm được Phan Rí, rồi Thị Nại (Bình Định). Năm sau, hạ được thành Qui Nhơn. Năm 1799, ông về cai quản xứ Định Tường. Sau khi Nguyễn Phúc  Ánh chiếm thành Phú Xuân, giao ông trấn giữ thành Qui Nhơn.

Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua (Gia Long), Nguyễn Huỳnh Đức được phong Quận công. Năm 1810, ông được làm Tổng trấn Bắc thành kiêm Khâm sai Chưởng tiền quân. Năm 1816, ông trở về Nam làm Tổng trấn Gia Định cùng với Hiệp Tổng trấn Trịnh Hoài Đức, cai quản cả miền Nam.

Ngày 9 tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), ông mất khi đangtại chức, thọ 71 tuổi, an táng tại nơi quê nhà và được thờ tại miếu Trung hưng công thần tại kinh đô Huế.

Năm Minh Mạngthứ 12 (1831), ông được truy tặng là Kiến Xương Quận công. Ông có 4 người con trai đều là võ quan, trong số đó có 2 người là rể vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh).

Di tích

Bia đá và ngôi mộ hình hộp của Nguyễn Huỳnh Đức.

Hiện nay, nơi quê quán của Nguyễn Huỳnh Đức ở Long An, có đền thờ và lăng mộ ông, được dòng tộc giữ gìn khá tốt.

Tại đây có bức họa truyền thần được vẽ từ năm 1802 (ảnh), bộ ván độc mộc dài 3,4m – rộng 1,8m – dày 0,14m, vốn là vật dụng của ông. Bên trong đền còn có 3 bộ lỗ bộ (đồ binh khí), lọng và 4 cặp liễn đối ca ngợi công trạng ông do vua Gia Long ngự ban. Ở cuối chánh điện có khám thờ với bức đại tự do vua Tự Đức đề tặng vào năm 1854. Bên trong đền còn lưu giữ chiếc hộp sơn son đựng 8 bản chiếu, chỉ, chế, sắc của nhiều vua Nguyễn phong tặng.

Đặc biệt, nơi điện thờ còn lưu giữ đoản kỷ do vua Xiêm ban tặng vào năm 1789, khi ông đi sứ qua đó; một khánh lệnh bằng đồng do vua Gia Long ban tặng vào năm 1819.

Cách không xa đền là khu lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức, với nhiều cây sứ cổ thụ vây quanh luôn nở hoa và tỏa hương thơm ngạt ngào. Trước mộ có tấm bia đá cao 1,56m -rộng 0,95m được mang vào từ Huế. Mộ đấp nấm hình hộp: dài 3,4m – rộng 2,7m – cao 0,3m (ảnh). Sau ngôi mộ là bình phong lớn có viết bài Thọ Phần Minh. Tất cả, được che chắn bằng những bức tường đá ong kiên cố. Trong khuôn viên này có cả thảy 9 cặp liễn đối, một bài minh, một bức bình phong bằng đá ong cao 3m, có đắp nổi hoa văn hình cây đại thụ che mát cho đôi hươu…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *